1. Thực trạng chọn ngành
Hiện nay không ít học sinh và gia đình quyết định chọn ngành nghề dựa trên tin đồn “ngành hot”, “lương khủng” hay chỉ vì nghe bạn bè, người thân khuyên mà không hề hiểu bản thân muốn gì. Hoặc những câu hỏi xuất hiện đầu tiên trong đầu khi bắt đầu chọn ngành để học/ nghề để làm lại là công việc nào lương cao? Công việc nào uy tín? Việc nào ổn định lâu dài?,... điều đó không sai nhưng để hướng nghiệp được bài bản, đúng đắn cần có khoa học làm cơ sở (dựa trên các công trình, nghiên cứu khoa học) để có thể giúp người được hướng nghiệp biết – hiểu và thực hành được khi bước vào hành trình chọn ngành để học/ nghề để làm.
Vậy thì điều đầu tiên mà Thanh Huy muốn chia sẻ chính là Mô hình lý thuyết Cây nghề nghiệp - sẽ trả lời cho câu hỏi "Bước đầu tiên hướng nghiệp nên tìm hiểu những gì?"
2. Nền tảng khoa học: “Lý thuyết cây nghề nghiệp”
Theo mô hình lý thuyết “Cây nghề nghiệp”, các “rễ” gồm sở thích, năng lực, giá trị nghề nghiệp, cá tính sẽ quyết định thân cây (lộ trình học tập, phát triển) và từ đó mới tạo ra quả ngọt (công việc ổn định, thu nhập cao, danh tiếng,…). Lý thuyết này đã được đưa vào các chương trình giáo dục phổ thông để HS có thể tìm hiểu, cho thấy nó đã được tin tưởng, thẩm định bởi các chuyên gia giáo dục đầu ngành.
Vậy để bước đầu tiến vào hành trình hướng nghiệp thứ thực sự nên quan tâm đầu tiên là "Hiểu mình" - hiểu được mình thích gì, có năng lực gì, cá tính ra sao,... để chọn một công việc tương lai phù hợp với những điều đó.
3. Vai trò từng “rễ” đối với nghề nghiệp
3.1. Sở thích: Nền tảng của động lực và bền chí trong nghề nghiệp
Khi sở thích phù hợp với công việc, bạn sẽ vui vẻ học hỏi, kiên trì vượt khó và có thể giúp bạn đủ kiên trì để theo đuổi một cách dài hơi. Hãy hình dung một công việc vừa cực lại vừa không yêu thích… vậy thì bạn sẽ làm nó mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm,… trong trạng thái như thế nào?
Một công trình nghiên cứu đã thu thập hơn 60 nghiên cứu khác và khoảng 568 mối tương quan đề cập đến mối quan hệ giữa sở thích và hiệu suất. Kết quả cho thấy sở thích thực sự liên quan đến hiệu suất và sự kiên trì trong công việc… (Nye và cộng sự 2012)
Có một mối quan hệ tích cực và có ý nghĩa (thống kê) giữa mức độ phù hợp sở thích và sự hài lòng chung trong công việc (ρ=0.19). Mặc dù con số này thấp hơn dự kiến (dựa trên các đánh giá định tính trước đây), nhưng nó vẫn cung cấp bằng chứng rõ ràng rằng các đánh giá sở thích có thể dự đoán được sự hài lòng đối với công việc. (Hoff và cộng sự, 2020)
Ví dụ: Bạn thích vẽ và học Thiết kế đồ họa sẽ kiên trì luyện kỹ năng, ít khi bỏ giữa chừng; ngược lại, nếu ép bản thân học ngành không thích, bạn dễ chán nản, bỏ cuộc.
3.2. Năng lực: Làm việc trên thế mạnh mới hiệu quả
Năng lực (đối với học sinh) – tức khả năng học tập, tư duy, kỹ năng mềm nổi trội ở hiện tại – chính là “thế mạnh tự nhiên” giúp học nhanh, hiểu sâu và dễ đạt thành tích trong ngành nghề tương lai. Nếu chọn ngành phù hợp năng lực, học sinh sẽ ít gặp khó khăn, dễ cảm thấy tự tin, hào hứng học tập. Ngược lại, nếu năng lực không phù hợp, các em sẽ nhanh nản, tụt lại so với bạn bè, thậm chí bỏ học hoặc chuyển ngành.
Khả năng Tinh thần Tổng quát (GMA), còn được gọi là trí thông minh hoặc khả năng nhận thức tổng quát, được đánh giá là yếu tố dự đoán có giá trị và mạnh mẽ nhất đối với hiệu suất công việc trong tương lai và khả năng học tập liên quan đến công việc (Schmidt, F. L., & Hunter, J. E., 1998). Lý do chính khiến GMA là một chỉ số dự đoán mạnh mẽ như vậy nằm ở tác động nhân quả trực tiếp của nó đến khả năng tiếp thu kiến thức công việc và học hỏi.
3.3. Cá tính: Hợp môi trường, hợp người – làm việc thăng hoa
Lựa chọn một công việc phù hợp với tính cách giúp cá nhân phát huy tối đa năng lực mà còn góp phần vào sự hài lòng và động lực dài hạn trong công việc.
Cùng một lĩnh vực yêu thích nhưng với mỗi cá tính khác nhau có thể hướng đến các loại công việc tương ứng. Thích làm việc với con chữ, viết lách nhưng ai yêu thích sự làm việc độc lập (một mình) sẽ chọn trở thành một nhà văn, một biên tập,… Ngược lại, một bạn thích tương tác giao tiếp lại có thể trở thành MC, người kể chuyện, diễn viên hài,.. để làm cho con chữ sống động, ngôn ngữ được truyền đến nhiều người theo cách sinh động, rộn ràng.
3.4. Giá trị nghề nghiệp: Làm việc đúng giá trị mới hạnh phúc
Biết được giá trị nghề nghiệp (như: muốn cống hiến, thích sáng tạo, thích làm việc cộng đồng, hướng đến giá trị thực tế - vật chất cụ thể,…) là điều kiện để một người có thể gắn bó lâu dài với công việc, tổ chức.
Nếu một cá nhân có giá trị thực tế, thích những thành tựu cụ thể, quan tâm đến vật chất như vậy những công việc hướng đến cộng đồng (không có lợi nhuận) sẽ không hấp dẫn họ. Hoặc một HS yêu thích sáng tạo, thích tìm tòi thì một công việc văn phòng, bàn giấy sẽ làm cho họ ít hứng thú, mặc dù họ vẫn có thể làm – làm tốt,… nhưng hứng thú và sống cùng công việc đó một cách lâu dài thì sẽ khó khăn.
4. Hệ quả khi chỉ chạy theo “quả”
Ngày nay, nếu chỉ chọn ngành nghề vì nó đang “hot” theo trào lưu, rất nhiều bạn trẻ có thể rơi vào cảnh hụt hẫng, thất vọng khi xu hướng ấy nhanh chóng đổi chiều, hoặc chính bản thân không đủ đam mê, năng lực để theo đuổi lâu dài. Thực tế cho thấy, tốc độ thay đổi của các ngành nghề đang “hot” ngày nay nhanh hơn gấp nhiều lần so với 10 năm trước. Trước đây, tài chính – ngân hàng, quản trị kinh doanh từng là những lựa chọn “thời thượng” được ca ngợi trên khắp các trang tin tuyển sinh. Đến gần giai đoạn trước Covid-19, du lịch lại vươn lên thành ngành mơ ước của nhiều bạn trẻ. Nhưng đến nay (2025), chúng ta đang chứng kiến sự bùng nổ mạnh mẽ của AI, phân tích dữ liệu (Data Analytics), Blockchain – những lĩnh vực mà trước đây ít ai hình dung sẽ thống trị thị trường lao động nhanh đến vậy. Điều đó có nghĩa là nếu chọn ngành chỉ vì nó “hot”, bạn buộc phải chuẩn bị tâm thế chấp nhận khi xu hướng thay đổi. Bởi lẽ, thứ được ưa chuộng hôm nay hoàn toàn có thể trở nên dư thừa hoặc lỗi thời vào ngày mai.
Thậm chí, ngay cả khái niệm tưởng chừng rất bền vững như “công việc ổn định” cũng không còn phù hợp trong bối cảnh biến động hiện nay. Quan niệm truyền thống của ông bà ta – rằng chỉ cần vào biên chế nhà nước, làm công chức là cả đời yên ấm, bền vững – đang bị thách thức mạnh mẽ. Khi nhà nước tiến hành tinh gọn bộ máy, giảm biên chế, và khi những đề xuất xóa bỏ chế độ “công chức suốt đời” được đưa ra, rõ ràng chính những công việc từng được xem là “ổn định nhất” cũng không còn bảo đảm sự an tâm quá nhiều nữa.
5. Khuyến nghị: Cách bắt đầu từ “rễ” để chọn ngành bền vững
✅ Khám phá bốn “rễ”: dùng các công cụ chuẩn hóa để thực hiện và tham khảo.
✅ Tham vấn chuyên gia hướng nghiệp: giúp bạn ghép nối các rễ để ra tìm thấy lĩnh vực và nhóm ngành nghề phù hợp, thay vì chỉ nhìn học lực hay xu hướng.
✅ Theo dõi, cập nhật định hướng: nghề nghiệp là hành trình cả đời; mỗi 2–3 năm, học sinh, sinh viên nên tự đánh giá lại để điều chỉnh.
Kết luận
Chỉ khi các “rễ” (sở thích, năng lực, giá trị nghề nghiệp, cá tính) vững chắc, “thân cây” mới đủ khỏe để vươn cao trong môi trường biến động, tạo ra “quả” ngọt. Hãy bắt đầu từ việc tìm hiểu bản thân; thay vì chạy theo trào lưu để lựa chọn ngành học/ nghề nghiệp.
Tài liệu tham khảo
Hoff, K. A., Song, Q. C., Wee, C. J. M., Phan, W. M. J., & Rounds, J. (2020). Interest Fit and Job Satisfaction: A Systematic Review and Meta-Analysis. Journal of Vocational Behavior, 123. https://doi.org/10.1016/j.jvb.2020.103503
Lê Huy Hoàng, Phạm Mạnh Hà, Nguyễn Xuân An, Nguyễn Thị Bích Thủy và Vũ Cẩm Tú. (2024). Sách giáo khoa Công nghệ 9 - Định hướng nghề nghiệp (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống). NXB Giáo dục Việt Nam.
Nguyễn Trọng Khanh và Nguyễn Thị Mai Lan. (2024). Sách giáo khoa Công nghệ 9 - Định hướng nghề nghiệp (Bộ sách Cánh diều). NXB Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Truy xuất: nxbdsh.vn/ebook-free/11954/0/1
Nye, C. D., Su, R., Rounds, J., & Drasgow, F. (2012). Vocational Interests and Performance: A Quantitative Summary of Over 60 Years of Research. Perspectives on Psychological Science, 7(4), 384-403. https://doi.org/10.1177/1745691612449021 (Original work published 2012)
Phoenix Hồ. (2025). Mô hình lý thuyết cây nghề nghiệp (có hiệu chỉnh).
Schmidt, F. L., & Hunter, J. E. (1998). The validity and utility of selection methods in personnel psychology: Practical and theoretical implications of 85 years of research findings. Psychological Bulletin, 124(2), 262–274.